PGS.TS. Vũ Văn Tích
PGĐ. Học viện Chiến lược Khoa học và Công nghệ, Bộ Khoa học và Công nghệ.
1. Đặt vấn đề
Nhiều người trăn trở về các phương thức để phát triển kinh tế – xã hội và làm sao để có một xã hội khá giả hơn, làm sao để cách thực hiện điều đó một cách bền vững trong bối cảnh mà nguồn tài nguyên thiên nhiên nước ta ngày một cạn kiệt. Nhìn sang Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc), Singapore đã tổ chức tái cấu trúc thành công mô hình phát triển và tăng trưởng của họ trong thời gian khoảng 40 năm trở lại đây. Có thể, nói Việt Nam đang có những điều kiện rất cơ bản để thực hiện công cuộc tái cấu trúc như nhóm các quốc gia mới nổi nêu trên trong một hoặc hai thập kỷ tới. Để đạt được khát vọng này, chúng ta cần phải có mô hình phát triển phù hợp trong bối cảnh của nước ta, trong bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và tác động của kỷ nguyên công nghệ AI đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới.
Có thể nói, trước đây hầu hết các cuộc bàn luận chính sách và chiến lược ở tầm quốc gia, chủ yếu tập trung vào các vấn đề tài chính, hạ tầng giao thông trong khi những vấn đề liên quan đến góc độ khoa học, công nghệ (KH&CN), đổi mới sáng tạo (ĐMST) và chuyển đổi số (CĐS) thì được đề cập không thực sự sâu sắc, không đi vào bản chất nút thắt của sự phát triển. Các chính sách chủ yếu tập trung vào những gì được coi là “nền tảng của nền kinh tế” như: lãi suất, nợ công, rủi ro tài chính, thặng dư sơ cấp, cán cân thanh toán, thặng dư thương mại, phòng trống tham nhũng… Các nhà hoạch định phát triển dường như tin rằng một khi tình hình tài chính được cân đối (thông qua xuất khẩu), thì tăng trưởng sẽ đến như một hệ quả tất yếu.
Bên cạnh đó, còn có quan điểm phát triển dựa trên đầu tư vào cơ sở hạ tầng và thực tế đã được triển khai, tuy nhiên với kết quả hiện tại, cho chúng ta thấy rằng, có những vấn đề rất cơ bản trong ba thập kỷ qua đã cản trở sự phát triển của Việt Nam và làm gián đoạn tăng trưởng nếu tính theo GDP bình quân đầu người. Nhưng, các vấn đề rất quan trọng của KH, CN và ĐMST lại chưa được đưa vào đầu tư đúng mức và bây giờ chính là thời điểm cần được bản thảo một cách đúng mức.
Sự phát triển kinh tế của Việt Nam có thể thấy rõ thông qua hoạt động mở cửa nền kinh tế vào những năm chín mươi của thế kỷ trước “Thời kỳ mở cửa”. Khi đó có ý kiến nêu ra và tin rằng, một khi lạm phát được kiểm soát, cái gọi là tự do hóa kinh tế, các cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ tự động thiết lập các điều kiện để tăng trưởng và toàn cầu hóa sẽ cung cấp công nghệ cho tất cả mọi người để ứng dụng trong sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên việc ứng dụng công nghệ cho các hoạt động phát triển, không tự nhiên do mở cửa mang lại mà đòi hỏi chúng ta phải nắm bắt và triển khai để ứng dụng KH, CN và ĐMST, không chỉ là đường lối, mà phải được triển khai bao trùm mọi mặt của hoạt động kinh tế – xã hội từ hoạt động sản xuất thường nhật của người dân, doanh nghiệp đến việc vận hành quản lý bộ máy của cơ quan nhà nước.
2. Con đường đầu tư của một số quốc gia phát triển
Lý thuyết về mối tương quan giữa tích lũy kinh tế với năng lực trí tuệ tổng hợp quốc gia nằm trong các quy trình, dịch vụ và sản phẩm hay nói cách khác chính là trí tuệ tổng hợp, hay năng xuất tổng hợp (TFP). Việc sắp xếp chúng lại theo các mô hình tổ chức đem lại giá trị cao hơn đang là nhu cầu bức thiết của nước ta. Đây là bản chất của một quá trình phát triển: trí tuệ, công nghệ và đổi mới sáng tạo, tiếp theo tự chuyển đổi thành tiền tệ hoặc năng lực để có động lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Đây là con đường phải đi của kỷ nguyên tri thức, nền kinh tế trí thức, kỷ nguyên văn minh của loài người do AI mang lại đang có giá trị trên toàn thế giới.
Con đường công nghiệp hóa đang làm theo cách truyền thống hiện nay sẽ có kết quả tích cực nào đó, nhưng thành công nhất có thể đạt được từ mô hình công nghiệp hóa hiện chỉ là tổng giá trị của nhân lực lao động chất lượng thấp, nguyên liệu thô và đầu vào của sản xuất có giá trị cao do nhập khẩu và chi phí vốn (đầu tư FDI), bên cạnh đó chính là nhập khẩu bản quyền và công nghệ. Các sản phẩm tạo ra, không có giá trị tích hợp tương ứng với sự đổi mới sáng tạo và tri thức của quốc gia. Nói chung, chúng là những sản phẩm thông thường đã được chế tạo hoặc cung cấp bởi các quốc gia khác nhau, có thể xem mô hình sản xuất kinh doanh của SamSung, và một số công ty công nghệ khác từ đầu tư nước ngoài tại nước ta là ví dụ.
Nhìn tổng thể, mô hình này, không thể đem lại lợi nhuận gì đặc biệt cho sự phát triển kinh tế của quốc gia, có chăng chỉ để thu hồi cho doanh nghiệp khoảng từ 10% đến 20% vốn sử dụng (trong quá trình công nghiệp hóa). Nhưng đối với đất nước, chúng ta đã phải đầu tư nguồn lực vào phát triển điện, đường xá, bến cảng, chuẩn bị cơ sở hạ tầng giáo dục, viễn thông… thì lợi nhuận đem lại từ mô hình này vẫn chưa đủ bù đắp. Bây giờ, nếu chúng ta xem xét các khoản miễn trừ thuế, đầu tư vào cơ sở hạ tầng, trả nợ lãi vay và chuyển cổ tức trong trường hợp đầu tư từ nước ngoài, khi đó kết quả thu được thậm chí có thể là rất tiêu cực. Do đó, thay đổi đầu tiên liên quan đến chiến lược phát triển là phải hiểu rằng với mô hình phát triển như hiện nay có thể tạo ra lợi ích cho hàng trăm công ty, hàng ngàn doanh nghiệp nước ngoài nhưng sẽ không có tiến bộ cho quốc gia.
Ví dụ, nước ta cần phải đầu tư nhiều hơn hàng trăm tỷ đô la trong mười năm tới để cung cấp và phát triển năng lượng điện, giao thông, môi trường và đào tạo lao động để giữ, thúc đẩy quá trình phát triển của Việt Nam hiện nay. Và nếu lựa chọn các doanh nghiệp sử dụng cơ sở hạ tầng và nguồn lực hiện tại để đầu tư vào quy trình sản xuất và nông nghiệp/công nghiệp truyền thống như hiện nay, thì nước ta sẽ ngày càng tụt hậu so với các nước phát triển. Vì quá trình đầu tư này sẽ tạo ra sự phát triển hào nhoáng bên ngoài, nhưng hiệu quả sẽ không đáng kể. Do đó, chúng ta cần phải nhận ra tầm quan trọng của phương thức đầu tư trong các khu vực sản xuất mà sử dụng hiệu quả nhất nguồn lực của hàng trăm tỷ đô này vào các phân khúc sao cho có lợi nhuận hơn ở quy mô quốc gia trên cơ sở sử dụng nền tảng cơ sở hạ tầng, trình độ KHCN và hệ thống nhân lực hiện nay của nước ta với là điều đáng bàn.
Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loàn (Trung Quốc), Singapor đã trở nên hùng mạnh về công nghiệp chiến lược (công nghiệp đi với các công nghệ chiến lược) mà không có tài nguyên thiên nhiên như Việt Nam. Nên nhớ rằng, chúng ta có dầu khí, sắt, nhôm và các khoáng sản quý hiếm (đất hiếm) có thứ hạng cao trên thế giới về quy mô, đặc biệt với diện tích đất đai trải rộng của hai đồng bằng châu thổ lớn như đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long mà ở đó có thể dễ dàng lựa chọn con đường phát triển dựa trên sự khai thác các tài nguyên thiên nhiên này. Trong khi, các quốc gia con rồng Châu Á này đã nỗ lực hết mức ở mấy thập kỷ qua, để chọn con đường chuyển đổi trí tuệ và tri thức chất lượng cao đưa vào các sản phẩm, quy trình sản xuất, quy trình quản trị và các dịch vụ quốc gia của họ. Đây là mô hình phát triển mà chúng ta cần nghiên cứu áp dụng, bởi vì họ sử dụng hiệu quả cơ sở hạ tầng và nguồn lực của trí tuệ để chuyển dịch nền kinh tế của họ nhưng không cần đầu tư nhiều để phát triển. Ví dụ, Việt Nam hiện có ít các khoản đầu tư tốt để tạo ra năng lượng điện nhưng lại tham gia vào các ngành công nghiệp thâm dụng điện, đòi hỏi nhiều xăng dầu, tàn phá môi trường và ngoài ra chúng ta cũng đang tổ chức hoạt động nông nghiệp có giá trị tổng hợp thấp, đòi hỏi nhiều năng lượng, đất đai và phân bón. Vì vậy, khi mổ sẻ mô hình tăng trưởng hiện nay của chúng ta, cho thấy mô hình này đòi hỏi đầu tư ngày càng nhiều hơn vào cơ sở hạ tầng và sản xuất đầu vào cơ bản mà không thảo luận sâu về lợi nhuận quốc gia trên mỗi một hoạt động đầu tư của các ngành và mỗi địa phương với các các giả thuyết và khía cạnh tính toán khác nhau.
Với dân số 100 triệu dân như hiện nay, Việt Nam muốn được xem là quốc gia phát triển phải có GDP khoảng 2,5 nghìn tỷ USD tức là gấp 5 lần giá trị hiện tại (~ 450 tỷ USD). Trên thực tế, giá trị này cao đến mức không thể đạt được nó trong vòng hai mươi hoặc ba mươi năm nữa từ thương mại của các ngành nghề liên quan đến lĩnh vực chính hiện nay như: nông nghiệp, đánh bắt hải sản, chăn nuôi gia súc, khai thác khoáng sản, du lịch, phát triển năng lượng chỉ đủ cho sản xuất, công nghiệp lắp ráp thuê cho đầu tư nước ngoài v.v. và các lĩnh vực thứ cấp thông thường (sản xuất hàng hóa truyền thống cho thị trường trong nước và nước ngoài như dệt may, dày dép…với nguyên liệu đầu vào phần nhiều đều từ Trung Quốc); ngay cả khi điều này có thể xảy ra, chúng ta sẽ có một giá trị GDP (lên đến 450 tỷ USD) mà không có chất lượng, nghĩa là nó sẽ không tạo ra của cải quốc gia thực sự vì nó sẽ không trả công cho vốn quốc gia và nhân lực chất lượng cao được sử dụng do cạnh tranh gay gắt từ bên ngoài. Hầu như, không có gì của trí tuệ Việt thuần túy được chuyển đổi thành tiền tệ thông các giao dịch thương mại quốc tế. Theo kết quả nghiên cứu chưa đầy đủ của một tổ chức quốc tế, trong số 450 tỷ USD GDP của Việt Nam trong năm qua, chỉ có khoảng hơn 204 tỷ USD là do trí tuệ chính người Việt tạo ra, còn lại do đầu tư từ nguồn FDI.
Vì vậy, mặc dù có lợi thế và cơ hội để thu lợi từ các nguồn tài nguyên thiên nhiên như ở nước ta, một quốc gia có tài nguyên thiên nhiên và vị trí địa lý tuyệt vời với hơn 2000 km mặt tiền ở Biển Đông, nhưng cũng cần phải đặc biệt chú ý đến khai thác nguồn tài nguyên quý giá của trí tuệ Việt (tri thức, nguồn lực thông tin, dữ liệu… vv) trong hoạt động nghiên cứu KH,CN & ĐMST của các trường đại học và các viện nghiên cứu chuyên ngành, các doanh nghiệp công nghệ. Đây có thể nói là sự chuyển đổi của mô hình Công nghiệp kiểu mới và Thương mại kiểu mới.
Chúng ta hãy phân tích một phần của sự chuyển đổi trong chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong thời gian vừa qua được thể hiện trong Nghị quyết 57/NQ-TW và Nghị quyết 66 NQ-TW như sau:
– Bức tranh toàn cảnh thế giới được phân biệt bởi sự năng động của nền kinh tế mới (nền kinh tế số) dựa trên sự khuếch đại nhu cầu của các sản phẩm và quy trình thương mại khác biệt, trở nên khả thi nhờ sự phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng của công nghệ mới (công nghệ 4.0 và kỷ nguyên trí tuệ nhân tạo AI) với các hình thức tổ chức kiểu mới. Động lực mới này nâng cao tầm quan trọng của đổi mới sáng tạo và ứng dụng công nghệ một cách khôn ngoan như một yếu tố then chốt cho tăng trưởng và sự cạnh tranh gay gắt trên thế giới hiện nay. Chính vì vậy coi KHCN, ĐMST là tư liệu sản xuất mới và chuyển đổi số là quan hệ sản xuất mới là một triết lý rất quan trọng của Nghị quyết.
– Coi ĐMST là nền tảng cho chiến lược của ngành công nghiệp, nông nghiệp của Việt Nam. Theo đó, việc tạo môi trường thuận lợi cho đổi mới sáng tạo, có cơ sở hạ tầng công nghệ đầy đủ và các trung tâm tri thức với năng lực chuyển giao và thương mại hóa kết quả nghiên cứu của tất cả các tổ chức trong nền sản xuất của chúng ta là điều kiện cần thiết cho thành công của của nền kinh tế trong mười và hai mươi năm tới.
– Coi chuyển đổi số là cuộc cách mạng của cải cách hành chính, là con đường ngắn nhất để tham gia vào nền kinh tế số. Một hành lang kinh tế phi biên giới rất năng động hiện nay.
Gần đây, Hàn Quốc đã đưa ra một báo cáo đánh giá về các phân khúc quan trọng của Trung Quốc sẽ cạnh tranh trong tương lai với các phân khúc của Hàn Quốc ở thị trường thế giới. Theo đó Trung Quốc cùng với Nhật Bản, Hoa Kỳ, Cộng đồng Châu Âu đi đầu trong đầu tư phát triển có chọn lọc (lựa chọn ưu tiên) trong các lĩnh vực công nghệ cao và công nghệ lõi,.
Vào những năm 1960, Hàn Quốc đã làm điều tương tự với Nhật Bản. Động thái này của Hàn Quốc cũng tương tự như các đối thủ cạnh tranh luôn tiến hành các nghiên cứu để xác định các lĩnh vực “sản phẩm tương lai”, chịu trách nhiệm cho tăng trưởng kinh tế bền vững và sự giàu có của quốc gia cũng như sự khá giả của xã hội. Nó cũng tương tự như của Việt Nam đưa ra các chính sách công nghiệp, nông nghiệp và thương mại, phát triển nông thôn mới, phát triển dân tộc và miền núi, giảm nghèo bền vững.
Cho tới ngày hôm nay, sự khác biệt lớn của Việt Nam so với các nước trên là rất ít người nói đến chiến lược phát triển dựa trên đổi mới sáng tạo và ứng dụng công nghệ và do đó cách đi này, không được các phương tiện truyền thông phổ biến một một cách thích đáng cho đến khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW và Nghị quyết 68-NQ/TW về sự định hướng đặc biệt này.
3. Một số lĩnh vực có thể tạo nên sự phát triển
Quá trình phát triển dựa vào đổi mới sáng tạo và ứng dụng công nghệ đã làm kinh ngạc thị trường thế giới từ lịch sử phát triển nhân loại và đặc biệt tại một số quốc gia tập trung vào nó trong nhiều năm qua. Họ đã tích hợp giá trị gia tăng cao hơn cho các sản phẩm, quy trình và dịch vụ của một quốc gia như đã nói ở trên. Điều này không phụ thuộc vào nguyên liệu cũng như không phụ thuộc vào nhân lực và vốn thâm dụng. Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc), Hồng Kông, Isarel, Ireland, Hà Lan, Phần Lan, Singapore trở nên giàu có nhờ chuyển đổi các giá trị trí tuệ quốc gia vào các sản phẩm, quy trình và dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Tổng cộng hàng nghìn sáng kiến, sáng chế đã đảm bảo thu nhập tăng thêm cho sự phát triển bền vững của các quốc gia này. Và chính bằng cách này, các quốc gia đó đã biết quản trị để nhân lên các giá trị đầu vào mà họ mua từ các nước kém phát triển hoặc đang phát triển, đồng thời thiết lập một hệ thống thương mại trong đó cái họ mua có thể có giá trung bình dưới 500 đô la Mỹ trong khi hàng hóa xuất khẩu của họ lại có giá trị hàng nghìn và đôi khi hàng triệu đô la Mỹ.
Thực tế cho thấy rằng nếu Việt Nam chưa đi theo con đường phát triển kiểu mới này, do cuộc cách mạng công nghiệp mới 4.0 và kỷ nguyên AI đặt ra trước mắt, nước ta sẽ không có sản phẩm gì để cung cấp trên thị trường (trong nền kinh tế số, nền sản xuất mới với các sản phẩm thông minh) khi đó chúng ta buộc phải bỏ ra nhiều tiền để phải mua các đổi mới sáng tạo được cung cấp trên toàn thế giới do các nước đi theo hướng này tạo ra.
Hàng năm, ngoài khoản đầu tư ban đầu để mua các sản phẩm công nghệ nền phục vụ cho sản xuất theo nền kinh tế 4.0, chúng ta sẽ phải chi một khoản tiền tương đương khoản mua ban đầu chỉ để được cập nhật để có thể sử dụng được sản phẩm công nghệ đó. Có nghĩa là, nó làm giảm dự trữ quốc gia và nó cũng chỉ trừ đi các nguồn lực xã hội để thay thế những thứ mà lẽ ra chúng ta phải làm ra, do đó cứ thế nó sẽ làm giảm đi mức tiết kiệm chung trong những năm tiếp theo, hay nói cách khác chúng ta sẽ là con nợ kiểu mới, không phải nợ vay lãi ODA mà nợ do tiêu dùng kiểu mới.
Nếu chúng ta không thay đổi ngay mô hình phát triển truyền thống, thì chúng ta sẽ bị những thâm hụt gia tăng sẽ rất cao trong bối cảnh của nền sản xuất kiểu mới trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 và kỷ nguyên AI. Theo mô hình đầu tư như hiện nay, chăc chắn bước tiếp theo của chúng ta sẽ là đầu tư các nhà máy sản xuất các sản phẩm này từ các quốc gia phát triển, hoặc thu hút đầu tư từ các nước phát triển đặt các nhà máy tại Việt Nam (chúng ta chỉ thu từ thuế với giá rẻ). Khi Việt Nam học được công nghệ, và cách tạo ra các sản phẩm này và để trở thành hàng hóa trên thị trường thì chúng ta vẫn sẽ nhập khẩu các thành phần phức tạp hơn (có công nghệ cao hơn). Và còn quan trọng hơn, là cái hướng đi này nó đã diễn ra trong tất cả các chu kỳ đầu tư công nghệ sản xuất trong ba mươi năm qua, rất nhanh chóng những nhà máy công nghệ này sẽ trở nên lỗi thời, lặp lại quá trình đầu tư mới nếu muốn cạnh tranh trên thị trường.
Do đó, các quốc gia phát triển trung bình như nước ta sẽ mơ về những nhà máy mà họ không có và bất cứ khi nào họ có được chúng thì đã lại là sản phẩm lỗi thời và vì vậy chu kỳ sai lầm này sẽ lặp lại một cách tai hại.
4. Phương thức phát triển dựa vào khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số
Trong 40 năm qua, không có quốc gia nào trở nên giàu có mà theo con đường truyền thống trong đó chủ yếu là dự vào sản xuất và xuất khẩu hàng hóa nông nghiệp cơ bản, chăn nuôi gia súc, nuôi trồng thủy hải sản hay xuất khẩu quặng thô hoặc sản phẩm quặng sơ chế. Nhưng cũng trong khoảng thời gian này, đã có khoảng hai mươi quốc gia (các nước G20) đã trở nên giàu có vì họ nỗ lực tạo ra các sản phẩm sáng tạo, quy trình và dịch vụ có giá trị năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) cao và sự đổi mới sáng tạo nói chung trong tất cả các lĩnh vực.
Xây dựng mô hình phát triển cho Việt Nam bây giờ là một công việc đầy khó khăn phức tạp nhưng cần thiết. Đó chính là mô hình phát triển dựa vào KH, CN, ĐMST & CĐS để chúng ta có thể đi đến sự đồng thuận xác định mô hình phát triển của đất nước trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và kỷ nguyên AI. Theo đó rất cần phải:
– Tích cực tham gia hoạt động trong thị trường quốc gia và quốc tế về công nghệ cao và đổi mới sáng tạo:
– Đổi mới sáng tạo tăng năng suất các sản phẩm truyền thống đặc hữu.
– Phát triển năng lực của quốc gia và các doanh nghiệp là nhà cung cấp hàng hóa và dịch vụ trong các lĩnh vực có tầm quan trọng chiến lược và có giá trị tích hợp cao.
– Phát triển công nghệ ứng dụng các công nghệ của CMCN 4.0 trong các lĩnh vực dịch vụ nơi sự sáng tạo, chất lượng, trí tuệ nhân tạo và công nghệ tổng hợp là quan trọng.
– Thúc đẩy mạnh chuyển đổi số để phá bỏ các cố hữu về chính sách quản trị truyền thống, phá bỏ các rào cản và trì trệ của nền hành chính hiện nay.
– Ứng dụng công nghệ (moving object) để khai thác kinh tế khu vực không gian tầng thấp nhờ các công nghệ như drone, IOT, Mesh Wifi,… để khai thác khu vực mặt tiền biển Đông vô cùng quan trọng hiện nay trên tuyến hàng hải tấp lập nhất thế giới.
5. Các kiến nghị
Việc tăng cường cải cách quốc gia hiện nay (sắp xếp lại giang sơn), đã đặt nền móng cho sự phát triển đất nước trong cả trước mắt và lâu dài, như đã chỉ ra ở trên, là một cuộc chiến trên nhiều mặt. Chúng ta phải giải quyết vấn đề tái cấu trúc một cách triệt để, và phải quyết tâm với mô hình phát triển dựa vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Để đạt đến sự xuất sắc về công nghệ như Isarel, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ và Trung Quốc, cần phải thay đổi một lần và mãi mãi một đặc điểm quan trọng đó là văn hóa, cụ thể nếu không có văn hóa đổi mới sáng tạo, không chấp nhận cái mới, nó sẽ khiến chúng ta nghĩ rằng Việt Nam không có cơ hội phát triển công nghệ cao.
Việc khẳng định sự vươn mình của quốc gia, thông qua khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo sẽ giúp Việt Nam tập trung trí tuệ quốc gia cho phát triển và chắc chắn sẽ khuếch đại nền tảng xã hội phát triển.
Về khía cạnh giáo dục, cần tận dụng những nỗ lực to lớn đã đạt được trong khu vực này và trao cơ hội cho những bộ não quốc gia đang tiếp tục mất đi hoặc chưa được sử dụng hết. Mặt khác, chính nỗ lực đổi mới sáng tạo phát triển các sản phẩm tầm vóc sẽ góp phần nâng cao trình độ khoa học cơ bản, ứng dụng công nghệ của các thế hệ sinh viên và thậm chí là của giáo viên hay nhà khoa học, nhà công nghệ, nhà phát minh.
Về khía cạnh kinh tế, bằng cách tích hợp vào giá trị sản phẩm từ trí tuệ quốc gia, chúng ta sẽ tăng năng suất vốn và tăng trưởng kinh tế và đồng thời tăng năng suất lao động.
Về khía cạnh tài chính, sẽ có những lựa chọn thay thế dù không thể đưa ra mức thù lao tương đương với mức lãi suất khá cao ở Việt Nam hiện nay (phản ánh phần nào rủi ro đầu tư) sẽ là những lựa chọn thay thế an toàn cho việc đầu tư tiền tiết kiệm quốc gia.
Để nước ta phát triển cân bằng với bên ngoài trong trung và dài hạn, điều cơ bản đối với một quốc gia đang phát triển như nước ta là không nên bỏ rơi khu vực tri thức năng động ở các trường đại học, các học viện KH, CN & ĐMST như hiện nay. Hơn nữa, trong bối cảnh hiện nay, điều quan trọng là phải và chỉ tập trung đầu tư thực hiện hoạt động nghiên cứu ứng dụng – đổi mới sáng tạo, trong các trường đại học, các doanh nghiệp và đặc biệt là các tổ chức KHCN tư nhân, sản xuất các bằng sáng chế và chuyển giao các đổi mới sáng tạo (tài sản trí tuệ) vào trong các sản phẩm, gắn với chuyển đổi số và dịch vụ tạo nên hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia.
Việt Nam nên cấu trúc một Hệ thống đổi mới quốc gia hoàn chỉnh, cho phép liên kết của các tác nhân tham gia vào quá trình đổi mới của khu vực sản xuất – kinh doanh, đặc biệt là các doanh nghiệp, các trung tâm nghiên cứu công và tư (đại học và viện nghiên cứu), các tổ chức môi giới, thúc đẩy và tài trợ cho phát triển công nghệ, các tổ chức hỗ trợ đo lường, sở hữu trí tuệ, công nghệ và quản lý tài sản trí tuệ, các sàn giao dịch tài sản trị tuệ, các tổ chức phổ biến công nghệ tới toàn dân.
Việt Nam cần giữ quan điểm xuyên xuốt rằng Khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số thực sự là quốc sách hàng đầu, nhưng bây giờ KHCN và ĐMST phải là động lực cho công nghiệp chiến lược và nông nghiệp chiến lược, kinh tế sáng tạo (phim ảnh, gamming ,…) kích thích mạng lưới các trung tâm công nghệ và đổi mới sáng tạo, trong đó đòi hỏi phải có sự hợp nhất công và tư thông qua mô hình liên kết ba nhà. Thúc đẩy nền kinh tế có quy mô và phạm vi lớn hơn, năng động hơn, chia sẻ chi phí và rủi ro, đồng thời gia tăng mạng lưới và thiết lập quan hệ đối tác trên thị trường quốc tế trên môi trường số hiện nay…
Tài liệu tham khảo chính:
- Bộ Khoa học và Công nghệ (2022), Khoa học và Công nghệ Việt Nam, NXB Khoa học và Kỹ thuật.
- Broström, A., 2011. The Triple Helix: University-industry-government innovation in action – By Henry Etzkowitz. Papers in Regional Science, 90(2), pp.441-442.
- Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia (NASATI, 2022), Xu hướng khoa học và công nghệ đến 2040, Hà Nội.
- European Innovation Council and SMEs Executive Agency (2021), Report on technology trends and technology adoption, European Commission.
- De Medici, S., Riganti, P. and Viola, S. (2018). Circular economy and the role of universities in urban regeneration: the case of Ortigia, Syracuse. Sustainability, 10(11), p.4305.
- Ellen MacArthur Foundation. (2013). Towards the Circular Economy. Economic and business rationale for an accelerated transition. Rethink the Future, 1.
- Global Trends 2040, The National Intelligence Council, 3/2021
- Gartner Top 10 Strategic Technology Trends, 2023; The Top 10 Tech Trends In 2023 Everyone Must Be Ready For, Forbes, 7/2023.
- Ngân hàng Thế giới và Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Việt Nam 2035 – Hướng tới thịnh vượng, sáng tạo, công bằng và dân chủ. Hà Nội, 2016.
- Ngân hàng Thế giới và Bộ Khoa học và Công nghệ: Báo cáo Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo Việt Nam. Hà Nội, 2021.
- Nghị quyết số 57NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
- Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 5/4/2025 của Bộ chính trị về phát triển Kinh tế tư nhân.
- Nguyễn Trọng Bình (2018), Vai trò của nhà nước trong hệ thống đổi mới quốc gia ở một số nước phát triển và gợi mở đối với Việt Nam, Lý luận chính trị. tại http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/quoc-te/item/2448-vai-tro-cua-nha-nuoc-trong-he-thong-doi-moi-quoc-gia-o-mot-so-nuoc-phat-trien-va-goi-mo-doi-voi-viet-nam.html.
- OECD (2021b), SME and Entrepreneurship Policy in Viet Nam, OECD Studies on SMEs and Entrepreneurship, OECD Publishing, Paris, http://doi.org/10.1787/30c79519-en.
- WIPO (2019), Technology Trands, https://www.wipo.int, Switzerland.